Chỉ cần là một người xem phim kiếm hiệp, cụm từ mà chúng ta nghe nhiều nhất là: ” Lấy độc trị độc”. Và trước tiên, tôi sẽ kể cho bạn nghe hai câu chuyện như sau:
Chuyện thứ nhất: Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị vua Mithridate VI 1 vị vua vùng Pontus (Thổ Nhĩ Kì ngày nay) đều uống một lượng nhỏ chất độc mỗi ngày để cơ thể quen dần. Ông cho rằng đây là cách để đương đầu với nguy cơ bị ám sát. Suy nghĩ thì quá ư là hoang đường chẳng 1 ai tin. Trong 1 trận chiến, sau khi bại trận trở về, ông đã quyết định tự sát bằng uống độc và điều kì diệu là ông chẳng bị hề hấn gì.
Chuyện thứ hai: Vào thế kĩ thứ 10 , tại Trung Hoa ( Trung Quốc ngày nay) một môn phái Đạo giáo các thầy lang tay nghề giỏi đã bí mật dùng một kỹ thuật để tránh bệnh đậu mùa.( Ngày xưa, đậu mùa là một căn bệnh đáng sợ hơn hết bởi lẽ nếu không giết chết bệnh nhân thì nó cũng mang lại tổn thương vĩnh viễn trên khuôn mặt với những vết sẹo rỗ). Các thầy lang này đã dùng vẩy sẹo của người bệnh (mang mầm bệnh) rồi cho vào một chiếc hộp kín, giữ ở nhiệt độ nhất định trong một thời gian để giảm độc. Sau đó, họ nghiền nhỏ vẩy này rồi thổi vào mũi của người khỏe mạnh chưa từng mắc bệnh để ngăn ngừa bệnh.
Hai câu chuyện trên đã chứng minh được cho việc “lấy độc trị độc” là điều hoàn toàn đúng đắn.
Vắc xin đầu tiên trên thế giới:
Vào năm 1796, khi Châu Âu đang gồng mình chống lại dịch đậu mùa thì một vị bác sĩ người Anh Quốc – Edward Jenner. đã thí nghiệm thành công vắc xin ngừa căn bệnh này. Theo kinh nghiệm dân gian được ghi chép lại, những nông dân chuyên vắt sữa bò có thể bị nhiễm bệnh “đậu bò”, nhưng sau khi khỏi bệnh thì họ lại miễn nhiễm với bệnh đậu mùa. Từ luận điểm trên, Jenner đã chiết xuất dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của bệnh nhân Sarah Nelmes rồi cấy dịch đó vào tay của một cậu bé đang khỏe mạnh James Phipps để Phipps có triệu chứng của bệnh đậu bò. Sau 48 ngày, khi Phipps đã khỏi hẳn bệnh thì Jenner tiêm chất có mầm bệnh đậu mùa cho cậu. Kết quả cho thấy Phipps hoàn toàn không hề hấn gì với bệnh đậu mùa! Cách làm của vị bác sĩ thời đó gây nhiều tranh cãi khi có thể gây nguy hiểm tính mạng cho cậu bé. Tuy nhiên, những tính toán kỹ lưỡng của ông đã mang tính khai phá khi đứa trẻ đã tự đề kháng được bệnh.
Sau đó 80 năm, Louis Pasteur cấy các vi khuẩn gây bệnh dịch tả tiêm cho gà để thực hiện thí nghiệm . Kết quả là những con bị tiêm đều chết sạch sẽ. Tuy nhiên, Pasteur đã không bỏ cuộc khi mùa hè năm 1878, ông chuẩn bị thêm một bình dung dịch nuôi vi khuẩn dạng huyền phù rồi để đó và đi nghỉ mát. Khi quay về, ông thực hiện thí nghiệm lần 2 tương tự như lần trước thì thấy rằng bầy gà lúc này chỉ bị bệnh nhẹ rồi sau đó cùng khỏe lại, không có con nào chết cả. Ngay tức thì, Pasteur hiểu được rằng khi ông đi vắng cũng là lúc ông cho đám vi khuẩn thêm thời gian để suy yếu, biến tính đi. Qua thêm vài lần thí nghiệm nữa thì Louis Pasteur đã xác nhận các giả thuyết của Jenner và đồng thời mở lối cho ngành miễn dịch học hiện nay.
Mặc dù không phải là cha đẻ của Thuyết mầm bệnh nhưng pasteur được xem là người khai phá và chứng minh luận điểm của bác sĩ edward Jenner.
Kể từ lúc đó, các chủng ngừa đã đẩy lùi được rất nhiều bệnh: Triệt tiêu bệnh đậu mùa trên toàn cầu, bệnh bại liệt dường như biến mất, giảm đáng kể các bệnh sởi, ho gà, thủy đậu, quai bị, thương hàn,… Người ta hy vọng có thể hướng tới khả năng dùng thuốc vắc-xin để điều trị một số bệnh nan y như ung thư, AIDS,…
Sự phát triển của Vắc xin:
- Vắc xin thế hệ đầu tiên là vắc xin toàn sinh vật – hoặc sống và suy yếu, hoặc dạng đã bị tiêu diệt. Các vắc xin sống, giảm độc lực, chẳng hạn như vắc xin đậu mùa và bại liệt, có thể tạo ra phản ứng của tế bào T độc sát (TC hoặc CTL), phản ứng của tế bào T trợ giúp (TH) và khả năng miễn dịch kháng thể. Tuy nhiên, các dạng giảm độc lực của mầm bệnh có thể chuyển sang dạng nguy hiểm và có thể gây bệnh cho những người nhận vắc xin bị suy giảm miễn dịch (chẳng hạn như những người bị AIDS). Mặc dù vắc-xin bị giết không có nguy cơ này, nhưng chúng không thể tạo ra phản ứng tế bào T độc sát cụ thể và có thể hoàn toàn không hoạt động đối với một số bệnh.
- Vắc xin thế hệ thứ hai được phát triển để giảm rủi ro từ vắc xin sống. Đây là những vắc xin tiểu đơn vị, bao gồm các kháng nguyên protein cụ thể (như độc tố uốn ván hoặc bạch hầu) hoặc các thành phần protein tái tổ hợp (như kháng nguyên bề mặt viêm gan B). Chúng có thể tạo ra phản ứng TH và kháng thể, nhưng không tạo ra phản ứng của tế bào T độc sát.
- Vắc xin RNA và vắc xin DNA là những ví dụ về vắc xin thế hệ thứ ba Vào năm 2016, một loại vắc-xin DNA cho vi-rút Zika đã bắt đầu được thử nghiệm tại Viện Y tế Quốc gia. Riêng Inovio Pharmaceuticals và GeneOne Life Science đã bắt đầu thử nghiệm một loại vắc-xin DNA khác chống lại Zika ở Miami. Việc sản xuất vắc-xin với số lượng lớn vẫn chưa được giải quyết vào năm 2016.Các thử nghiệm lâm sàng đối với vắc xin DNA để ngăn ngừa HIV đang được tiến hành.Vắc xin mRNA như BNT162b2 được phát triển vào năm 2020 với sự trợ giúp của Chiến dịch Warp Speed và được triển khai đại trà để chống lại đại dịch COVID-19.
Tổng hợp các loại vắc xin được hình thành
Năm | Loại vaccine | Người đề xuất |
1796 | Vaccine đậu mùa | E.Jenner |
1880 | Vaccine bệnh than | Louis Pasteur |
1885 | Vaccine dại bất hoạt | Louis Pasteur |
1892 | Vaccine tả | Haffkine |
1896 | Vaccine tả | Kolle |
1898 | Vaccine thương hàn | Raita |
1915 | Vaccine chống hoại thư | Weinberg |
1921 | Vaccine BCG phòng lao | L.C.A.Calmette-A.F.Mguerin |
1923 | Vaccine ho gà | Blum-Madsen |
1926 | Vaccine bạch hầu | G.Ramon-Glenny |
1927 | Vaccine uốn ván Ramon | Zoeller |
1932 | Vaccine sống sốt vàng | M.Theiler |
1933 | Vaccine Weil’s | Wani |
1937 | Vaccine cúm bất hoạt | Salk |
1938 | Vaccine viêm não | A.Cmorodinsov-E.Levkovich |
1940 | Vaccine dại bất hoạt | D.Semple |
1943 | Vaccine cúm sống | Francis |
1949 | Vaccine Lepto | A.Varpholomeev-G.Kovalxkii |
1953 | Vaccine bại liệt chết | Salk |
1957 -1960 | Vaccine bại liệt sống uống – Vaccine sởi sống | SabinJ.F.Enders,Yokuno,A.A.Smordints |
1967 | Vaccine quai bị bất hoạt | ev |
1968 | Vaccine viêm não mủ C | (Hoa Kỳ) |
1969 | Vaccine Rubella sống | Gotschlich |
1971 | Vaccine viêm não mủ A | (Hoa Kỳ-Bỉ) |
1974 | Vaccine Rubella sống | Gotschlich |
1978 | Vaccine viêm gan B huyết tương | Takahashi |
1979 | Vaccine Viêm phế cầu | Maufas |
1980 | Vaccine dại nuôi cấy tế bào | Austrian |
1981 | Vaccine ho gà vô bào | (Pháp – Nhật) |
1983 | Vaccine thủy đậu | Sato |
1983 | Vaccine viêm gan B tái tổ hợp – Vaccine sởi+quai bị+Rubella | TakahshiMerkCo.Ltd (Hoa Kỳ), Myanohara |
1986 | Vaccine Hib | Nhật |
1988 | Vaccine viêm gan A | Merieux |
1992 | Vaccine cộng hợp 5 thành phần DTP-IPV-Hib | |
1993 | Vaccine DPT-Hib-HepB | |
1996 | Vaccine Rota và Lym |